Trong nhiều năm các bác sĩ da liễu, bác sĩ đa khoa và rất nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc bệnh nhân nhấn mạnh ăn những loại thức ăn nhất định làm bệnh vảy nến của họ nặng lên là ảo tưởng, sai lầm. Tuy nhiên qua một vài năm suy nghĩ này dần được thay đổi và chúng ta ngày nay nhận thấy kết quả của một vài nghiên cứu gần đây và các thử nghiệm lâm sàng trên nhiều liệu pháp dinh dưỡng cũng như chế độ ăn cho bệnh vảy nến, kết quả rõ ràng là chế độ ăn ảnh hưởng tới đầu ra sức khỏe của bệnh nhân.
Một nghiên cứu trên 20,000 bệnh nhân viêm da cơ địa và vảy nến bởi Khoa dinh dưỡng y học đại học Donau ở Úc thấy rằng bệnh nhân bên cạnh việc dị ứng với thức ăn và tăng số lượng phản ứng giả dị ứng gây ra bởi các chất độc hại (formaldehyde, khí thải, chất phụ gia, nicotine, chất bảo quản gỗ, thuốc từ sâu, kim loại nặng) mà gây ra quá trình viêm ở phía sau các triệu chứng phức tạp. Các nhà nghiên cứu nhận thấy 60% tổng số bệnh nhân tăng nồng độ lưu thông phức hợp miễn dịch IgE với thức ăn đặc hiệu và IgG chịu trách nhiệm cho việc giảm phản ứng dị ứng (type III). Họ tìm ra ở bệnh nhân viêm da cơ địa và vảy nến đều có phản ứng giả dị ứng chống lại các amin hữu cơ và có tăng hằng định nồng độ histamin huyết tương. Các kết quả được công bố trước đó chỉ ra rằng giảm hoạt động enzym DAO ở huyết tương giàu tiểu cầu của bệnh nhân viêm da cơ địa và vảy nến giải thích phản ứng không dung nạp với histamine, tyramine và thức ăn giàu octopamine.1 Diamine oxidase (DAO) là một enzyme trong cơ thể có chức năng phân giải histamine. Cơ thể sau đó dùng sản phẩm chuyển hóa này (được gọi là hợp chất imidazole) và bài tiết chúng qua thận vào nước tiểu.
Amin hữu cơ đóng vai trò quan trọng trong cơ thể người như: điều hòa cơ thể và pH dạ dày, bài tiết acid dạ dày, đáp ứng miễn dịch và tăng trưởng tế bào và biệt hóa. Do đó, amine là quan trọng đối với sự phát triển, đổi mới, chuyển hóa của mọi cơ quan trong cơ thể và ngoài ra còn cần thiết cho việc duy trì hoạt động chuyển hóa cao độ của các chức năng bình thường và hệ miễn dịch của ruột. Trái ngược với những vai trò này, tiêu thụ thức ăn chứa nhiều amin hữu cơ có thể gây ra các phản ứng không mong muốn như: nôn, đau đầu, đánh trống ngực, đỏ mặt, ợ nóng, các vấn đề dạ dày ruột, nhiễm độc thận, ban và thay đổi huyết áp. Các amin hữu cơ khác nhau có thể gây ra các tác dụng phụ khác nhau như: ăn quá nhiều tyramine có thể gây ra tăng huyết áp trong khi serotonin là một chất gây co mạch. Bị thiếu các cơ chế tự nhiên để thải các amin hữu cơ vì khiếm khuyết di truyền hoặc vì tiêu thụ các thuốc chống trầm cảm như . chất ức chế monoamine oxidase có thể mắc các phản ứng dị ứng đặc trưng bỏi khó thở, ngứa, ban, nôn, sốt và tăng huyết áp2
Histamine được tìm thấy ở đồ uống chứa cồn đặc biệt là rượu, sâm panh và bia, thịt hun khói, xúc xích, thịt hộp và xúc xích, kem chua, sữa chua, bơ, bánh mì chua, vv, mơ khô, mận khô, chà là, quả sung, nho khô, nước cam, phô mai, pho mát xanh, và kể cả pho mát dê, quả óc chó, hạt điều, đậu phộng, bơ, cà tím, rau bina, cà chua và cá hun khói và một số loại cá: cá thu, cá ngừ, cá cơm, cá mòi.
Vảy nến được cho là bệnh tự miễn và trong bệnh vảy nến nặng, không kiểm soát thuốc đối kháng histamine là có giá trị để giảm mức độ hoạt động của bệnh. Tổng hợp và bài tiết histamine làm tăng nguy cơ vì histamine là một trong những phân tử liên quan đến cơ chế bệnh sinh của các bệnh tự miễn.3,5
Tyramine được tìm thấy ở đậu răng ngựa, cà chua, men chiết xuất từ nước thịt, salamis và mortadella, bia
Tyramine, có nguồn gốc từ tyrosine, tác dụng giống adrenaline, làm tăng hoạt động của tim và tăng huyết áp. Nghiên cứu cho rằng căng thẳng tâm lý có thể làm bệnh vảy nến nặng thêm. Giả thuyết tiếp tục được đưa ra là những tác động của căng thẳng lên tiến trình và tiên lượng của vảy nến được gây ra bởi chất nội tiết thần kinh trong chức năng của hệ miễn dịch.4 Sản xuất quá nhiều tyramine gây giải phóng adrenaline từ túi dự trữ.4,5 Khi bệnh mạn tính tức là cơ thể ở trong tình trạng stress mạn tính, tuyến thượng thận bắt đầu hoạt động quá mức. Sau một khoảng thời gian, tuyến thượng thận bắt đầu bị suy. Suy giảm chức năng thượng thận liên quan tới tỉ lệ mắc các bệnh tự miễn như bệnh da và viêm khớp.6
Octopamine được tìm thấy ở đậu xanh, đậu nành, bơ, chuối, dứa,cà tím, sung, mận đỏ,mâm xôi, đậu phộng, hạt Brazil, dừa, thịt chế biến, nấm men
Octopamine liên quan mật thiết tới hormone norepinephrine. Các nghiên cứu trên bệnh nhân vảy nến là có liên quan tới tăng mức độ căng thẳng mạn tính, ở bệnh nhân vảy nến, tăng nồng độ norepinephrine máu so với bệnh nhân không bị vảy nến. Nghiên cứu kết luận rằng có sự tỉ lệ thuận giữa mức độ nặng của vảy nến với nồng độ norepinephrine. 7
Mối tương quan được biết đến giữa bệnh ruột kích thích như bệnh Crohn, viêm đại tràng, và hội chứng ruột kích thích từ những năm 80. Một số nghiên cứu kết luận rằng vảy nến và bệnh ruột kích thích liên quan trức tiếp tới các bệnh có viêm, có thể vì chúng có chung cơ chế miễn dịch. Da và ruột – hàng rào, mối liên kết giữa bên trong và bên ngoài cơ thể có chung một quá trình miễn dịch mà đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự cân bằng nội môi và chống lại các quá trình sinh bệnh.8
Solanine là một chất độc glyco alkaloid được tìm thất ở các loài cây họ solanaceae, ví dụ khoai tây, cà chua, cà tím. Nó có thể xuất hiện tự nhiên ở bất kì loài thực vật nào bao gồm lá, quả và củ. Nó rất độc dù chỉ là lượng rất nhỏ. Nghiên cứu thấy rằng sự gián đoạn hàng rào nội mô là quan trọng để khởi đầu và gây ra bệnh viêm ruột. Solanine thấm qua được màng chứa cholesterol vì thế phá vỡ sự nguyên vẹn của hàng rào nội mô. Thay đổi tính thấm ruột được một số nhà nghiên cứu cho là đóng vai trò then chốt trong việc khởi phát và duy trì quá trình viêm ở các bệnh như bệnh ruột kích thích.9,10 Solanine và các glycoalkaloids khác được phân loại như chất ức chế acetylcholinesterase dẫn tới tăng nồng độ chất dẫn truyền thần kinh mà gây ra co cơ lâu dài, đau, viêm và hạn chế hoạt động của cơ thể. Sưng khớp là triệu chứng lâm sàng của viêm màng hoạt dịch và đáp ứng cấp với marker sinh học của sản xuất cytokin. Solanine có lẽ ngoài ra còn gây ra oxi hóa dẫn tới hình thành các gốc tự do và thay đổi trong chất chống oxy hóa và tiêu thụ các gốc tự do.11 Solanine có thể đem lại tác dụng không mong muốn trên bệnh nhân vảy nến. Phần trăm bệnh nhân viêm khớp mà nhạy cảm với thực vật họ solanine có lẽ lớn hơn 10%. Một nghiên cứu được công bố năm 1982 ở tạp chí International Academy of Preventive Medicine thể hiện sự cải thiện đáng kể ở 70% của 5000 (> 3,500) bệnh nhân viêm khớp sau khi loại bỏi thức ăn chứa solanine khỏi chế độ ăn.12
Đọc các bài blog khác của chúng tôi “Vảy nến và đa bệnh tật”, “Vảy nến và rượu” “Vảy nến và lượng nước uống vào”.